Lịch sử Quốc_ca_Việt_Nam

Bản quốc ca đầu tiên

Bài chi tiết: Đăng đàn cung

Theo Nguyễn Ngọc Huy,[2] đến thời Chiến tranh thế giới thứ hai, hoàng đế Bảo Đại xuống chiếu chọn 1 quốc kỳquốc ca. Quốc kỳ là cờ long tinh còn quốc ca là bài Đăng đàn cung.

Đăng đàn cung là 1 bản cổ nhạc Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong hầu hết các giáo trình dạy cổ nhạc và nhạc cụ cổ truyền. Đây là bài nhạc nằm trong nghi thức lễ tế Nam Giao, được dùng khi vua ngự đến đài tế lễ. Lễ tế Nam Giao, thực hiện 3 năm/lần vào ngày đông chí, là lễ quan trọng nhất trong nghi thức của triều đình, khi nhà vua thay mặt quốc dân làm lễ tế trời.

Bài Đăng đàn cung được dùng cho nước Đại Nam, gồm Trung KỳBắc Kỳ, chứ không dùng cho Nam KỳNam Kỳthuộc địa, là 1 lãnh thổ hải ngoại của Pháp.

Năm 1942Hà Nội, nhạc sĩ Lê Hữu Mục (1925-) ghi lại nhạc, đặt lời ca khác gọi đó là Quốc ca Việt Nam, lấy tên Tiếng Gọi Non Sông còn có tên là Hồn Việt Nam:

Bên núi sông hùng vĩ trời Nam.Đã bao đời vết anh hùng chưa hề tan.Vì đâu máu ai ghi ngàn thu.Còn tỏ tường bên núi sông.Xác thân tan tành.Vì nước quên mình.

được một số người tin là quốc ca song ở miền Trung ít ai biết.

Giai đoạn 1945 - 1954

Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, chính quyền Nhật tuyên bố "trao trả độc lập" cho Việt Nam. Nội các Trần Trọng Kim (tháng 4/1945) thành lập Chính phủ Đế quốc Việt Nam, tuyên bố độc lập trên danh nghĩa là thành viên của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, quyết định đặt quốc thiều là bài Đăng đàn cung và quốc ca là bài hát Việt Nam minh châu trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân; đổi quốc kỳ là cờ quẻ Ly có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm".

Đồng thời, tại Nam Kỳ, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì tại đây dấy lên Thanh niên Tiền phong, quy tụ thanh niên yêu nước muốn giành độc lập thật sự. Nhiều người từng là sinh viên tại Viện đại học Hà Nội, là đại học duy nhất cho toàn cõi Đông Dương khi đó. Tại đây, họ đã quen với bài Sinh viên hành khúc hay Tiếng gọi sinh viên, bài nhạc tranh đấu của Tổng hội sinh viên. Bài nhạc có lời (cả tiếng Pháp tên Marche des étudiants và tiếng Việt) do 1 nhóm sinh viên soạn, gồm Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị, và nhạc do Lưu Hữu Phước soạn. Do đó, phong trào Thanh niên Tiền phong lấy bài Tiếng gọi sinh viên, đổi chữ "sinh viên" thành "thanh niên," và dùng làm đoàn ca. Đoàn kỳ là cờ vàng sao đỏ. Đoàn Thanh niên Tiền phong sau đó gia nhập Việt Minh để chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau Cách mạng Tháng Tám, khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì bài Tiến quân ca được chọn làm quốc ca Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này được ghi vào hiến pháp ngày 9/11/1946.[3]

Trong khi đó, năm 1946, tại Nam Kỳ, Pháp thành lập Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Chính phủ Nam Kỳ Cộng hòa quốc được thành lập ngày 23/6 do Nguyễn Văn Thinh lãnh đạo. Chính phủ này dùng quốc ca là 1 bài hát của giáo sư Võ Văn Lúa, lời dựa trên đoạn đầu Chinh phụ ngâm khúc. Chính phủ này tồn tại 2 năm.

Năm 1948, chính phủ Quốc gia Việt Nam ra đời, với Bảo Đại làm quốc trưởng và tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Chính phủ này sau đó đã chọn bài Tiếng gọi thanh niên, đồng thời thay chữ "thanh niên" bằng chữ "công dân", thành bài Tiếng gọi công dân, làm quốc ca. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước lúc còn sống đã phản đối việc tiếm dụng nhạc phẩm của ông để làm “quốc ca” cho các chế độ ở Sài Gòn trước 1975.[4]

Giai đoạn 1954 - 1976

Năm 1954, hiệp định Genève chia đất nước ra 2 vùng tập kết quân sự. Tại miền Bắc, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục dùng bài Tiến quân ca làm quốc ca. Tại miền Nam, chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng tiếp tục sử dụng bài Tiếng gọi công dân.

Năm 1956, Quốc hội Lập hiến tại miền Nam lập nên chế độ cộng hòa, hiến pháp 1956 thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa, bài Tiếng gọi công dân vẫn giữ làm quốc ca.

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Năm 1969, mặt trận thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để đối chọi với Hoa Kỳchính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ này sử dụng quốc ca là bài Giải phóng miền Nam, cũng của Lưu Hữu Phước viết dưới bút hiệu Huỳnh Minh Siêng, khi đó là Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng.

Sau ngày 30/4/1975, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, bài Giải phóng miền Nam trở thành quốc ca cho cả miền Nam trong nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cho tới khi 2 miền thống nhất vào ngày 2/7/1976 thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và quốc ca là Tiến quân ca.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quốc_ca_Việt_Nam http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/de-xuat-doi-l... http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/quoc-hoi-thon... http://nghiencuuquocte.org/2017/01/28/hoi-ky-tuong... http://www.nguoiduatin.vn/ve-de-xuat-sua-loi-quoc-... http://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpha... http://thanhnien.vn/thoi-su/chinh-thuc-cong-bo-du-... http://www.tienphong.vn/xa-hoi-phong-su/sua-quoc-c... http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20130604/de... http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20131128/sa...